I have heard that:
On one occasion Ven. Ananda was staying near Vesali at Veluvagamaka. Now on that occasion Dasama the householder from Atthakanagara had arrived at Pataliputta on some business. Then he went to a certain monk at Kukkata Monastery and on arrival, having bowed down to him, sat to one side. As he was sitting there he said to the monk, "Where is Ven. Ananda staying now? I'd like to see him."




Như vầy tôi nghe:
Một thời Tôn giả Ananda trú ở Vesali (Tỳ-xá-ly), tại (Trúc Lâm Ấp). Lúc bấy giờ gia chủ Dasama, người ở thành Atthaka đến tại Pataliputta (Ba-la-lị phất Thành) có công việc. Rồi gia chủ Dasama, người ở thành Atthaka đi đến Kukkutarama (Kê Viên), đến một Tỷ-kheo, đảnh lễ vị này, rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, gia chủ Dasama, người ở thành Atthaka thưa với Tỷ-kheo ấy:
– Bạch Tôn giả, Tôn giả Ananda nay an trú ở đâu ? Chúng con muốn gặp Tôn giả Ananda.

 

"Householder, the Ven. Ananda is staying near Vesali at Veluvagamaka."



– Này Gia chủ, Tôn giả Ananda nay ở Vesali, tại ấp Beluvagamaka.

 

Then Dasama the householder from Atthakanagara, on completing his business at Pataliputta, went to Ven. Ananda at Veluvagamaka near Vesali. On arrival, having bowed down to him, he sat to one side. As he was sitting there, he said to Ven. Ananda: "Venerable sir, is there a single quality declared by the Blessed One — the one who knows, the one who sees, worthy & rightly self-awakened — where the unreleased mind of a monk who dwells there heedful, ardent, & resolute becomes released, or his unended fermentations go to their total ending, or he attains the unexcelled security from the yoke that he had not attained before?"



Rồi gia chủ Dasama, người ở thành Atthaka, sau khi làm xong công việc ở Pataliputta, liền đi đến Vesali, ấp Beluvagamaka, đến Tôn giả Ananda, sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Ananda rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, gia chủ Dasama người ở thành Atthaka thưa với Tôn giả Ananda: – Bạch Tôn giả Ananda, có pháp độc nhất ǵ do Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố, nếu có Tỷ-kheo nào không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần sống hành tŕ pháp ấy, thời tâm chưa giải thoát của vị ấy được giải thoát, hay các lậu hoặc chưa được đoạn trừ đi đến đoạn trừ, hay pháp an ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt được chứng đạt ?

 

"Yes, householder, there is a single quality declared by the Blessed One — the one who knows, the one who sees, worthy & rightly self-awakened — where the unreleased mind of a monk who dwells there heedful, ardent, & resolute becomes released, or his unended fermentations go to their total ending, or he attains the unexcelled security from the yoke that he had not attained before"



– Này Gia chủ, có pháp độc nhất, do Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố. Nếu có Tỷ-kheo nào không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, sống hành tŕ pháp ấy, thời tâm chưa giải thoát của vị ấy được giải thoát, và các lậu hoặc chưa được đoạn trừ đi đến đoạn trừ, và pháp vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt được chứng đạt.

 

"And what is that one quality, venerable sir, a single quality declared by the Blessed One — the one who knows, the one who sees, worthy & rightly self-awakened — where the unreleased mind of a monk who dwells there heedful, ardent, & resolute becomes released, or his unended fermentations go to their total ending, or he attains the unexcelled security from the yoke that he had not attained before.?"



– Bạch Tôn giả Ananda, pháp độc nhất ấy là ǵ, do Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố, nếu có Tỷ-kheo nào không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, sống hành tŕ pháp ấy, thời tâm chưa giải thoát của vị ấy được giải thoát, và các lậu hoặc chưa được đoạn trừ đi đến đoạn trừ, và pháp vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt được chứng đạt ?

 

"There is the case, householder, where a monk, withdrawn from sensuality, withdrawn from unskillful qualities, enters & remains in the first jhana: rapture & pleasure born from withdrawal, accompanied by directed thought & evaluation. He reflects on this and discerns, 'This first jhana is fabricated & intended. Now whatever is fabricated & intended is inconstant & subject to cessation.' Staying right there, he reaches the ending of the mental fermentations. Or, if not, then — through this very Dhamma-passion, this Dhamma-delight, and from the total wasting away of the first five Fetters1 — he is due to be reborn [in the Pure Abodes], there to be totally unbound, never again to return from that world.



– Ở đây, này Gia chủ, Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Vị ấy suy tư và được biết: "Sơ Thiền này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành. Phàm sự vật ǵ là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự vật ấy là vô thường, chịu sự đoạn diệt". Vị ấy vững trú ở đây, đoạn trừ được các lậu hoặc. Và nếu các lậu hoặc chưa được đoạn trừ, do tham luyến pháp này, do hoan hỷ pháp này, vị ấy đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, nhập Niết-bàn tại cảnh giới ấy, khỏi phải trở lui đời này.

 

"This, householder, is a single quality declared by the Blessed One — the one who knows, the one who sees, worthy & rightly self-awakened — where the unreleased mind of a monk who dwells there heedful, ardent, & resolute becomes released, or his unended fermentations go to their total ending, or he attains the unexcelled security from the yoke that he had not attained before.



Này Gia chủ, như vậy là pháp độc nhất, do Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố, nên Tỷ-kheo nào không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, sống hành tŕ pháp ấy, thời tâm vị ấy chưa giải thoát được giải thoát, và các lậu hoặc chưa được đoạn trừ đi đến đoạn trừ, và pháp vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt được chứng đạt.

 

-With the stilling of directed thought & evaluation, I entered & remained in the second jhana: rapture & pleasure born of composure, unification of awareness free from directed thought & evaluation — internal assurance. -He reflects on this and discerns, 'This second jhana is fabricated & intended. Now whatever is fabricated & intended is inconstant & subject to cessation.' Staying right there, he reaches the ending of the mental fermentations. Or, if not, then — through this very Dhamma-passion, this Dhamma-delight, and from the total wasting away of the first five Fetters — he is due to be reborn [in the Pure Abodes], there to be totally unbound, never again to return from that world. -This, householder, is a single quality declared by the Blessed One — the one who knows, the one who sees, worthy & rightly self-awakened — where the unreleased mind of a monk who dwells there heedful, ardent, & resolute becomes released, or his unended fermentations go to their total ending, or he attains the unexcelled security from the yoke that he had not attained before.


-Lại nữa, này Gia chủ, vị Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh nhất tâm,
-Vị ấy suy tư và được biết: "Thiền thứ hai này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành. Phàm sự vật ǵ là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự vật ấy là vô thường, chịu sự đoạn diệt". Vị ấy vững trú ở đây, đoạn trừ được các lậu hoặc. Và nếu các lậu hoặc chưa được đoạn trừ, do tham luyến pháp này, do hoan hỷ pháp này, vị ấy đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, nhập Niết-bàn tại cảnh giới ấy, khỏi phải trở lui đời này.
-Này Gia chủ, như vậy là pháp độc nhất do Thế Tôn bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố. Nếu Tỷ-kheo nào không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, sống hành tŕ pháp ấy, thời tâm vị ấy chưa giải thoát được giải thoát, và các lậu hoặc chưa được đoạn trừ đi đến đoạn trừ, và pháp vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa chứng đạt được chứng đạt.

 

-With the fading of rapture I remained in equanimity, mindful & alert, and physically sensitive of pleasure. I entered & remained in the third jhana, of which the Noble Ones declare, 'Equanimous & mindful, he has a pleasurable abiding.' -He reflects on this and discerns, 'This third jhana is fabricated & intended. Now whatever is fabricated & intended is inconstant & subject to cessation.' Staying right there, he reaches the ending of the mental fermentations. Or, if not, then — through this very Dhamma-passion, this Dhamma-delight, and from the total wasting away of the first five Fetters1 — he is due to be reborn [in the Pure Abodes], there to be totally unbound, never again to return from that world. -This, householder, is a single quality declared by the Blessed One — the one who knows, the one who sees, worthy & rightly self-awakened — where the unreleased mind of a monk who dwells there heedful, ardent, & resolute becomes released, or his unended fermentations go to their total ending, or he attains the unexcelled security from the yoke that he had not attained before.


-Lại nữa, này Gia chủ, Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và an trú Thiền thứ ba.
-Vị ấy suy tư và được biết: "Thiền thứ ba này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành. Phàm sự vật ǵ là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự vật ấy là vô thường, chịu sự đoạn diệt". Vị ấy vững trú ở đây, đoạn trừ được các lậu hoặc. Và nếu các lậu hoặc chưa được đoạn trừ, do tham luyến pháp này, do hoan hỷ pháp này, vị ấy đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, nhập Niết-bàn tại cảnh giới ấy, khỏi phải trở lui đời này.
-Này Gia chủ, như vậy là pháp độc nhất do Thế Tôn bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố. Nếu Tỷ-kheo nào không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, sống hành tŕ pháp ấy, thời tâm vị ấy chưa giải thoát được giải thoát, và các lậu hoặc chưa được đoạn trừ đi đến đoạn trừ, và pháp vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa chứng đạt, được chứng đạt.

 

-With the abandoning of pleasure & pain — as with the earlier disappearance of elation & distress — I entered & remained in the fourth jhana: purity of equanimity & mindfulness, neither pleasure nor pain. -He reflects on this and discerns, 'This fourth jhana is fabricated & intended. Now whatever is fabricated & intended is inconstant & subject to cessation.' Staying right there, he reaches the ending of the mental fermentations. Or, if not, then — through this very Dhamma-passion, this Dhamma-delight, and from the total wasting away of the first five Fetters — he is due to be reborn [in the Pure Abodes], there to be totally unbound, never again to return from that world. -This, householder, is a single quality declared by the Blessed One — the one who knows, the one who sees, worthy & rightly self-awakened — where the unreleased mind of a monk who dwells there heedful, ardent, & resolute becomes released, or his unended fermentations go to their total ending, or he attains the unexcelled security from the yoke that he had not attained before.


Lại nữa, này Gia chủ, Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đă cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh.
Vị ấy suy tư và được biết: "Thiền thứ tư này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành. Phàm sự vật ǵ là pháp hữu vi, do suy tư tác thành thời sự vật ấy là vô thường, chịu sự đoạn diệt". Vị ấy vững trú ở đây, đoạn trừ được các lậu hoặc. Và nếu các lậu hoặc chưa được đoạn trừ, do tham luyến pháp này, do hoan hỷ pháp này, vị ấy đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, nhập Niết-bàn tại cảnh giới ấy, khỏi phải trở lui đời này. Này Gia chủ, như vậy là pháp độc nhất do Thế Tôn bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố. Nếu Tỷ-kheo nào không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, sống hành tŕ pháp ấy, thời tâm vị ấy chưa giải thoát được giải thoát, và các lậu hoặc chưa được đoạn trừ đi đến đoạn trừ, và pháp vô thượng an ổn khỏi các ách phược, chưa chứng đạt, được chứng đạt.

 

"Then again, a monk keeps pervading the first direction2 with an awareness imbued with good will, likewise the second, likewise the third, likewise the fourth. Thus above, below, & all around, everywhere, in its entirety, he keeps pervading the all-encompassing cosmos with an awareness imbued with good will — abundant, expansive, immeasurable, without hostility, without ill will.
-He reflects on this and discerns, 'This awareness-release through good will is fabricated & intended. Now whatever is fabricated & intended is inconstant & subject to cessation.' Staying right there, he reaches the ending of the mental fermentations. Or, if not, then — through this very Dhamma-passion, this Dhamma-delight, and from the total wasting away of the first five Fetters — he is due to be reborn [in the Pure Abodes], there to be totally unbound, never again to return from that world.


-Lại nữa, này Gia chủ, Tỷ-kheo an trú biến măn một phương với tâm câu hữu với từ; cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên dưới bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến măn với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.
-Vị ấy suy tư và được biết: "Từ tâm giải thoát này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành. Phàm sự vật ǵ là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự vật ấy là vô thường, chịu sự đoạn diệt". Vị ấy do vững trú ở đây, đoạn trừ được các lậu hoặc. Và nếu các lậu hoặc chưa được đoạn trừ, do tham luyến pháp này, do hoan hỷ pháp này, vị ấy đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, nhập Niết-bàn tại cảnh giới ấy, khỏi phải trở lui đời này.

 

"This too, householder, is a single quality declared by the Blessed One — the one who knows, the one who sees, worthy & rightly self-awakened — where the unreleased mind of a monk who dwells there heedful, ardent, & resolute becomes released, or his unended fermentations go to their total ending, or he attains the unexcelled security from the yoke that he had not attained before.



Này Gia chủ, như vậy là pháp độc nhất do Thế Tôn bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố. Nếu Tỷ-kheo nào không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, sống hành tŕ pháp ấy, thời tâm vị ấy chưa giải thoát được giải thoát, và các lậu hoặc chưa được đoạn trừ đi đến đoạn trừ, và pháp vô thượng an ổn khỏi các ách phược, chưa chứng đạt, được chứng đạt.

 

With the complete transcending of perceptions of [physical] form, with the disappearance of perceptions of resistance, and not heeding perceptions of diversity, thinking, 'Infinite space,' enters & remains in the dimension of the infinitude of space. He reflects on this and discerns, 'This dimension of the infinitude of space is fabricated & intended. Now whatever is fabricated & intended is inconstant & subject to cessation.' Staying right there, he reaches the ending of the mental fermentations. Or, if not, then — through this very Dhamma-passion, this Dhamma-delight, and from the total wasting away of the first five Fetters — he is due to be reborn [in the Pure Abodes], there to be totally unbound, never again to return from that world.


Lại nữa, này Gia chủ, Tỷ-kheo vượt lên mọi sắc tưởng, diệt trừ mọi chướng ngại tưởng, không tác ư đối với dị tưởng, Tỷ-kheo nghĩ rằng: "Hư không là vô biên", chứng và trú Không vô biên xứ. Vị này suy tư và được biết: "Không vô biên xứ định này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành. Phàm sự vật ǵ là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự vật ấy là vô thường, chịu sự đoạn diệt". Vị ấy vững trú ở đây, đoạn trừ được các lậu hoặc... chưa chứng đạt, được chứng đạt.

 

-With the complete transcending of the dimension of the infinitude of space, thinking, 'Infinite consciousness,' enters & remains in the dimension of the infinitude of consciousness. -He reflects on this and discerns, 'This dimension of the infinitude of consciousness is fabricated & intended. Now whatever is fabricated & intended is inconstant & subject to cessation.' Staying right there, he reaches the ending of the mental fermentations. Or, if not, then — through this very Dhamma-passion, this Dhamma-delight, and from the total wasting away of the first five Fetters — he is due to be reborn [in the Pure Abodes], there to be totally unbound, never again to return from that world.


Lại nữa, này Gia chủ, Tỷ-kheo vượt lên mọi Không vô biên xứ, nghĩ rằng: "Thức là vô biên", chứng và trú Thức vô biên xứ. Vị này suy tư và được biết: "Thức vô biên xứ này là pháp hữu vi do suy tư tác thành. Phàm sự vật ǵ là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự vật ấy là vô thường chịu sự đoạn diệt". Vị ấy vững trú ở đây, đoạn trừ các lậu hoặc.... chưa chứng đạt, được chứng đạt.

 

With the complete transcending of the dimension of the infinitude of consciousness, thinking, 'There is nothing,' enters & remains in the dimension of nothingness. He reflects on this and discerns, 'This dimension of nothingness is fabricated & intended. Now whatever is fabricated & intended is inconstant & subject to cessation.' Staying right there, he reaches the ending of the mental fermentations. Or, if not, then — through this very Dhamma-passion, this Dhamma-delight, and from the total wasting away of the first five Fetters — he is due to be reborn [in the Pure Abodes], there to be totally unbound, never again to return from that world.


Lại nữa, này Gia chủ, Tỷ-kheo vượt lên mọi Thức vô biên xứ, nghĩ rằng: "Không có vật ǵ", chứng và trú Vô sở hữu xứ. Vị này suy tư và được biết: "Vô sở hữu xứ định này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành. Phàm sự vật ǵ là pháp hữu vi, do suy tư tác thành thời sự vật ấy là vô thường, chịu sự đoạn diệt". Vị ấy vững trú ở đây, đoạn trừ được các lậu hoặc. Và nếu các lậu hoặc chưa được đoạn trừ, do tham luyến pháp này, do hoan hỷ pháp này, vị ấy đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, nhập Niết-bàn tại cảnh giới ấy, khỏi phải trở lui đời này.

 

"This too, householder, is a single quality declared by the Blessed One — the one who knows, the one who sees, worthy & rightly self-awakened — where the unreleased mind of a monk who dwells there heedful, ardent, & resolute becomes released, or his unended fermentations go to their total ending, or he attains the unexcelled security from the yoke that he had not attained before.


Này Gia chủ, như vậy là pháp độc nhất, do Thế Tôn bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố. Nếu Tỷ-kheo nào, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, sống hành tŕ pháp ấy, thời tâm vị ấy chưa giải thoát, được giải thoát, và các lậu hoặc chưa được đoạn trừ đi đến đoạn trừ, pháp vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa được chứng đạt được chứng đạt.

 

-With the complete transcending of the dimension of nothingness, enters & remains in the dimension of neither perception nor non-perception. -He reflects on this and discerns, 'This dimension of neither perception nor non-perception is fabricated & intended. Now whatever is fabricated & intended is inconstant & subject to cessation.' Staying right there, he reaches the ending of the mental fermentations. Or, if not, then — through this very Dhamma-passion, this Dhamma-delight, and from the total wasting away of the first five Fetters — he is due to be reborn [in the Pure Abodes], there to be totally unbound, never again to return from that world. -This too, householder, is a single quality declared by the Blessed One — the one who knows, the one who sees, worthy & rightly self-awakened — where the unreleased mind of a monk who dwells there heedful, ardent, & resolute becomes released, or his unended fermentations go to their total ending, or he attains the unexcelled security from the yoke that he had not attained before.


-Lại nữa, này Gia chủ, Tỷ-kheo vượt khỏi Vô sở hữu xứ một cách hoàn toàn, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. -vị ấy suy tư và được biết: "Phi tưởng phi phi tưởng xứ này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành. Phàm sự vật ǵ là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự vật ấy là vô thường, chịu sự đoạn diệt". Vị ấy vững trú ở đây, đoạn trừ được các lậu hoặc. Và nếu các lậu hoặc chưa được đoạn trừ, do tham luyến pháp này, do hoan hỷ pháp này, vị ấy đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, nhập Niết-bàn tại cảnh giới ấy, khỏi phải trở lui đời này.
-Này Gia chủ, như vậy là pháp độc nhất do Thế Tôn bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố. Nếu Tỷ-kheo nào không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, sống hành tŕ pháp ấy, thời tâm vị ấy chưa giải thoát được giải thoát, và các lậu hoặc chưa được đoạn trừ đi đến đoạn trừ, và pháp vô thượng an ổn khỏi các ách phược chưa chứng đạt được chứng đạt.

 

When this was said, Dasama the householder from Atthakanagara said to Ven. Ananda, "Venerable Ananda, just as if a man seeking a single opening onto treasure were all at once to come upon eleven openings onto treasure, in the same way I — seeking a single doorway to the Deathless — have all at once come to hear of eleven doorways to the Deathless. And just as if a man whose house had eleven doors could take himself to safety by means of any one of those doors, in the same way I can take myself to safety by means of any one of these eleven doors to the Deathless. Venerable sir, when sectarians search for a teacher's fee for their teachers, why shouldn't I pay homage to Ven. Ananda?"



Khi được nghe nói vậy, Gia chủ Dasama, người ở thành Atthaka bạch Tôn giả Ananda: – Bạch Tôn giả Ananda, như người t́m một kho tàng cất dấu, trong một lúc t́m được mười một kho tàng cất dấu. Cũng vậy, bạch Tôn giả, con đi t́m một pháp môn bất tử mà được nghe một lần mười một pháp môn bất tử. Bạch Tôn giả, như ngôi nhà người ta có đến mười một cửa, khi ngôi nhà bị cháy, th́ chỉ do một cửa người ta cũng có thể thoát ra một cách an toàn. Cũng vậy, bạch Tôn giả, chỉ với một cửa bất tử trong mười một cửa bất tử này, con có thể đạt được sự an toàn cho con. Bạch Tôn giả, đệ tử các ngoại đạo này sẽ t́m cầu tiền của cúng dường cho vị thầy của ḿnh, sao con lại không cúng dường cho Tôn giả Ananda.

 

So Dasama the householder from Atthakanagara, having assembled the community of monks from Vesali and Pataliputta, with his own hands served & satisfied them with refined staple & non-staple foods. He presented a pair of cloths to each monk, and a triple robe to Ven. Ananda. And, for Ven. Ananda, he had a dwelling worth five hundred [kahapanas].



Rồi gia chủ Dasama, người ở thành Atthaka cho mời họp Tỷ-kheo Tăng ở Pataliputta và Vesali, tự tay mời ăn và làm cho thỏa măn với các món ăn thượng vị loại cứng và loại mềm, tặng cho mỗi Tỷ-kheo, mỗi vị một cặp y, tặng cho Tôn giả Ananda ba y và xây dựng một Tăng xá trị giá năm trăm đồng tiền vàng (hay có năm trăm Tăng pḥng) cho Tôn giả Ananda.

 

Notes

1. Self-identity views, grasping at precepts & practices, uncertainty, sensual passion, and irritation.

2. The east.

See also: AN 9.36.

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

 Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật tŕnh bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

| | trở về đầu trang | Home page |